Để nông sản đáp ứng hàng rào kỹ thuật trong xuất khẩu, việc cấp và quản lý mã số vùng trồng là nhiệm vụ bắt buộc phải thực hiện. Tuy nhiên, hiện tỷ lệ diện tích trồng trọt được cấp mã số vùng trồng vẫn còn rất thấp, mới chỉ tập trung ở một số cây ăn quả chủ lực, công tác quản lý vùng trồng còn lỏng lẻo…
Mã số vùng trồng là “hộ chiếu” xuất khẩu nông sản.
Ngày 28/3/2022, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành Chỉ thị 1838/CT-BNN-BVTV về tăng cường công tác quản lý mã số vùng trồng và cơ sở đóng gói nông sản phục vụ xuất khẩu.
Trong đó, nhấn mạnh nhiệm vụ thiết lập, quản lý mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói phục vụ xuất khẩu đi vào thực chất và hiệu quả hơn; đồng thời nâng cao trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân liên quan, góp phần xây dựng nền nông nghiệp chuyên nghiệp và bền vững.
VẪN CÒN TÌNH TRẠNG MẠO DANH MÃ SỐ
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, trong những năm vừa qua, công tác thiết lập và cấp mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói đã đạt được nhiều kết quả tích cực, góp phần nâng cao uy tín của nông sản Việt Nam trên thị trường quốc tế và tăng kim ngạch xuất khẩu.
Tuy nhiên, còn nhiều địa phương chưa thực sự quan tâm đúng mức đến công tác này. Diện tích trồng trọt được cấp mã số vùng trồng còn quá ít và mới chỉ tập trung ở một số cây ăn quả chủ lực.
Trong khi đó, công tác giám sát vùng trồng, cơ sở đóng gói sau khi được cấp mã số tại một số địa phương vẫn còn nhiều hạn chế, chưa bảo đảm duy trì đầy đủ các yêu cầu kỹ thuật theo quy định của nước nhập khẩu.
Đặc biệt, tình trạng “mạo danh” mã số và vi phạm quy định về kiểm dịch thực vật, an toàn thực phẩm hay phòng chống Covid- 19 của vùng trồng và cơ sở đóng gói vẫn tồn tại.
Trong Chỉ thị 1838/CT-BNN-BVTV, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn giao cho Cục Bảo vệ thực vật phải thực hiện 6 nhiệm vụ.
Một là, hoàn thiện xây dựng các tiêu chuẩn quốc gia; cập nhật tài liệu hướng dẫn về thiết lập và quản lý vùng trồng, cơ sở đóng gói để tập huấn cho các tổ chức, cá nhân liên quan.
Hai là, chủ động đàm phán với cơ quan kỹ thuật của nước xuất khẩu để mở cửa thị trường, tăng số lượng mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói được phép xuất khẩu; giải quyết các rào cản kỹ thuật để tạo thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu.
Ba là, chủ trì, phối hợp địa phương tăng cường công tác quản lý, giám sát vùng trồng, cơ sở đóng gói đảm bảo đáp ứng các quy định kiểm dịch thực vật và an toàn thực phẩm.
Bốn là, xây dựng bộ tài liệu hướng dẫn kỹ thuật cho từng đối tượng áp dụng (người nông dân, doanh nghiệp, cán bộ kỹ thuật địa phương…) về các quy định kiểm dịch thực vật, an toàn thực phẩm theo chuỗi, từ sản xuất đến xuất khẩu trên từng loại sản phẩm trồng trọt; đảm bảo nguyên tắc dễ hiểu, dễ tiếp cận và dễ áp dụng.
Năm là, tăng cường áp dụng công nghệ thông tin để quản lý cơ sở dữ liệu về vùng trồng, cơ sở đóng gói đảm bảo sử dụng dữ liệu hiệu quả và truy xuất nguồn gốc nhanh chóng, minh bạch.
Sáu là, phối hợp và hỗ trợ xây dựng kế hoạch phát triển vùng trồng, cơ sở đóng gói trên cơ sở thực tế, đặc thù và nhu cầu của từng địa phương.
“Việc thiết lập và cấp mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói nông sản là yêu cầu bắt buộc của các thị trường và thông lệ quốc tế nhằm đảm bảo tuân thủ quy định của nước xuất khẩu về kiểm dịch thực vật, an toàn thực phẩm và truy xuất nguồn gốc. Những vấn đề kể trên gây ảnh hưởng đến uy tín của nông sản Việt trên thị trường quốc tế, cũng như kim ngạch xuất khẩu chung của ngành nông nghiệp”. Chỉ thị 1838/CT-BNN-BVTV.
ĐẨY MẠNH SỐ HÓA QUẢN LÝ VÙNG TRỒNG
Bên cạnh nhiệm vụ chính giao cho Cục Bảo vệ thực vật, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng giao cho các Cục, Vụ liên quan phối hợp Cục Bảo vệ thực vật trong công tác tuyên truyền, triển khai thiết lập, quản lý mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói.
Với Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn, Văn phòng Điều phối Chương trình Mục tiêu Quốc gia Xây dựng Nông thôn mới, Bộ Nông nghiệp chỉ đạo phải nghiên cứu, đề xuất đưa các chỉ tiêu về mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói vào Chương trình Chương trình Mục tiêu Quốc gia Xây dựng Nông thôn mới, Chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP).
Yêu cầu các địa phương phải đẩy mạnh số hóa quản lý mã số vùng trồng, tăng cường áp dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý vùng trồng, cơ sở đóng gói. Cụ thể, đề nghị UBND các tỉnh, thành phố chỉ đạo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp trên nền tảng Cơ sở dữ liệu quốc gia do Cục Bảo vệ thực vật xây dựng. Chỉ thị 1838/CT-BNN-BVTV.
Với Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, đơn vị có trách nhiệm xây dựng các chương trình tập huấn, truyền thông về mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói trong kế hoạch hoạt động hàng năm của hệ thống khuyến nông.
Cục Quản lý chất lượng Nông lâm sản và Thủy sản thực hiện công tác tổ chức thực hiện các chương trình giám sát dư lượng thuốc bảo vệ thực vật tại các vùng trồng được cấp mã số.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng đề nghị UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương xây dựng, bổ sung các chỉ tiêu về mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói vào nghị quyết, chương trình, đề án, kế hoạch hành động phát triển kinh tế xã hội tại địa phương; đồng thời xây dựng, ban hành các chính sách khuyến khích, hỗ trợ phát triển vùng trồng, cơ sở đóng gói theo quy mô sản xuất hàng hóa đáp ứng yêu cầu của nước xuất khẩu.
Khuyến nghị về công tác tập huấn, nâng cao nhận thức cho tổ chức, cá nhân tại địa phương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đưa ra yêu cầu: Nông dân cần được hướng dẫn về quy trình canh tác theo hướng sử dụng vật tư đầu vào tiết kiệm, an toàn và hiệu quả; ghi chép và hoàn thiện các hồ sơ liên quan trong quá trình sản xuất phục vụ truy xuất nguồn gốc; giám sát dư lượng thuốc bảo vệ thực vật; duy trì chất lượng của vùng trồng, cơ sở đóng gói đã được cấp mã số.
Bên cạnh đó, sở và phòng Nông nghiệp cấp huyện tăng cường thanh tra, kiểm tra việc quản lý, sử dụng mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói trên địa bàn; bố trí cán bộ đầu mối thông tin.
Chỉ thị cũng đề nghị các hiệp hội ngành hàng tăng cường tuyên truyền cho hội viên về mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói, đặc biệt là quy định kiểm dịch thực vật, an toàn thực phẩm của nước xuất khẩu; phối hợp Cục Bảo vệ thực vật và cơ quan địa phương trong việc phát triển mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói phục vụ xuất khẩu.